Trù Ếm…Nguyền Rủa
ĐỖ VINH tổng hợp
Tà thuật trù ếm và nguyền rủa có thể được sử dụng để hại người trực tiếp và gián tiếp. Người bị trù dập sẽ bị ốm đau, tai nạn, hay kể cả thiệt mạng. Trù ếm là một trong những tà thuật ghê sợ nhất, và rất ư là thông dụng ở dân gian. Mục đích trù ếm là để trả thù, hoặc để trấn an, bảo vệ một linh địa, một địa điểm chôn cất bảo vật hay nghĩa trang. Lời trù ếm có thể có hiệu lực ngay tức khắc, hoặc ngấm ngầm nhiều năm tháng. Có những lời trù ếm ám hại đến vài ba thế hệ, ảnh hưởng cả một đại gia tộc— chẳng hạn như Nhà Kennedy?
Phương pháp trù ếm thông dụng nhất là dùng một hình nộm, tức là một tiêu biểu đại diện cho người bị trù. Hình nộm có thể được cấu tạo bởi sáp, đất sét, gỗ, vải hay giấy (những con rối nộm). Hình nộm sẽ được tác tạo giống hệt người bị trù ếm. Hình nộm càng giống đối tượng, càng có hiệu quả mãnh liệt. Người bị trù sẽ chịu chung số phận với hình nộm của họ, khi bị đánh đập, hành hạ, xúc phạm, hủy diệt qua những hình thức đốt, đâm, bẻ gãy, nhận nước, xúc phạm bởi đồ dơ bẩn hoặc chôn xuống đất.
Tà thuật trù ếm, nguyền rủa, còn được những phù thủy, thầy bùa, thầy phép mang ra chợ đời buôn bán. Những người này có quyền năng đặc biệt để mua bán tà thuật hại người cũng như để giúp người. Họ có thể ban phép miễn phí hay đòi hỏi phải có giá trả, có khi giúp ích cho công lý, có khi tạo thêm nghiệp ác.
Rất nhiều người có khả năng sử dụng tà thuật trù ếm, nhưng tác động và hậu quả còn tùy thuộc bản lĩnh và quyền năng của từng phù thủy, thầy bùa, thầy phép được chiêu cầu. Phải là hạng cao tăng, sư thầy, giáo chủ, với đầy đủ quyền lực huyền bí mới thật sự đạt tới công lực cực kỳ lợi hại và nguy hiểm. Thông thường những người nghèo khổ, bệnh hoạn, bất hạnh nhất của xã hội là những người hay cầu thầy để tìm công lý hay sự trả thù. Tự họ cũng có thể trù ếm nguyền rủa người khác, hiệu lực ghê gớm nhất là lúc họ trăng trối trước khi chết.
Khi đối tượng bị trù ếm biết rằng họ đang bị ếm, sức khoẻ và tâm thần họ cảng bị suy sụp trầm trọng. Chính sự lo sợ của người bị trù ếm khiến cho họ đau khổ và hoang mang gấp bội. Tuy nhiên, trong trường hợp bị phù thủy cao tay ấn dùng tà thuật ếm, dẫu đối tượng không biết mình bị trù dập, kết cuộc cũng có thể bi đát y như họ biết. Nếu đối tượng cảm nhận rằng họ bị ếm, họ có thể tìm đến các thầy phép khác để gỡ bùa, diệt trù, và thường thì phải hao tốn một số tiền lớn để đối phó. Có khi người thầy mà họ cầu, chính là người đã trù ếm họ. Nếu là hai lực lượng khác nhau đối chọi, một cuộc chiến tà thuật gay go có thể xảy ra. Bên nào quyền thế hơn sẽ chiếm ưu vị. Phương pháp gỡ bùa, diệt trù rất ư là quyền biến, không thể bàn hết ở đây. Một điểm đặc biệt lưu ý, những đêm rằm sáng trăng là lúc quyền năng trù ếm mãnh liệt nhất. Ngược lại, những đêm trăng khuyết là lúc để đối phó trừ diệt bùa phép, trù ếm, hiệu lực nhất.ª
Nói về bùa ngải người ta thường nói kèm theo là thư, ếm vậy thư ếm là gì? Thư là thường dùng hương, dùng bút, họa bùa để chữa bệnh hoặc đôi khi vì 1 mục đích nào đấy người ta sử dụng để hại người.
Còn ếm, người ta dùng các vật dụng của thân chủ hay người bị hại thổi vào đấy 1 thần lực hoặc một ma lực để chữa bệnh hoặc hại người. Thông thường ếm có thể được gửi lên mây, xuống mép nước, theo ngọn gió, trong bờ cỏ, dưới ngọn cây, v..v. Hoặc còn được làm vào gia súc như gà, chó, lợn, v..v. Những người làm được thư ếm thật ra phải là những thầy có công lực thật sự mới có thể thực hiện được vì thế việc giải thư ếm là cả 1 vấn đề và phải được 1 người thầy có đủ công lực của Phật pháp mới có thể giải ra được không phải ai cũng có thể làm được điều này. Để giải thư ếm chủ yếu người ta dùng pháp cầu Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc Thất Cu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Vương Bồ Tát
Đó chỉ là một trong muôn vàn phương pháp. Nhưng, không lẽ muốn ếm đối tượng ở xa cả ngàn dặm, ông thầy phải mua vé máy bay ra gặp đối tượng sao? Chỉ cần tên, họ tuổi chính xác hoặc hình ảnh, vật dụng tùy thân của đối tượng là đủ. Ngoài ra còn có phép ếm cao hơn, không dùng vật dụng, tên tuổi ông thầy vẫn đắc thủ như thường … nhưng đó là độc môn, không thể tiết lộ.
một số tỉnh phía bắc gọi ”thư” là chài.
-Bùa: (xuất xứ TQ) một loại chữ viết trên giấy, có thể chứa dấu ấn của một vị nào đó theo tông phái với mục đích bảo vệ cho người giử lá bùa TD “bùa bình yên”.. Nó như một lời xác nhận rằng “đây là người của tôi, vuốt mặt phải nể mũi”, nhằm chống lại sự quấy rối của một thế giới tâm linh khắc. Sau nầy người VN còn mở rộng thêm, xem bùa như là một sự điều khiển vô hình đối với người nhận bùa TD “bùa mê” chẳng hạn.
– Ngải: có lẽ xuất xứ Thái Lan, dùng nhiều cho người thiểu số, cao cấp nhất là loại ngải “Thiên Linh Cái”, người ta dùng một loại ngải, nuôi trồng, phù phép, sử dụng cho nhiều trường hợp và mục đích khác nhau với mong muốn điều khiển người khác theo ý mình, hay dùng nó bảo vệ người chủ.
– Ếm: TQ, có ý là trấn áp, đè nén một vong hồn hay một tâm linh, không cho xuất hiện. Người ta còn bày vẽ dùng hình, tóc, vật dụng,, của 1 người để “ếm” tức là trấn áp đi thần trí của người đó.
– Thư: Cấy 1 vật gì đó vào cơ thể người khác nhằm làm hại họ hay buộc họ phải cầu cạnh mình để giải.
– Trù (nguyền), cái nầy bé hổng hỏi, thôi khuyến mãi luôn, là cách làm phép, cầu cho người nào đó bị một cái gì đó theo ý mình. Tuy nhiên để cân bằng phù phép thì người làm phép trù phải nhận một hình phạt như giảm thọ, giảm đức.. Đồng thời phải phụ chú vào đó một điều kiện để có thể giải lời nguyền đó.
Trừ Ngải và Thư, các phép còn lại đều xuất hiện nhiều trong truyện Phong thần, nhưng.. thực tế thì những phép nầy công hiệu đến đâu?? lão chưa từng gặp mà chỉ nghe đồn nên.. hổng biết. Riêng với “bùa bình yên” thì có thể nói đó là sự an ủi tốt cho dù linh hay không.
1. Bùa: Cái món này TQ có mà nơi khác cũng có, đạo Bon tại Tây Tạng từ trước khi Phật giáo xâm nhập đã rất thịnh về cách thức làm bùa chú. Luyện bùa phải đi kèm với chú. Người luyện bùa phải lập một đàn tràng, thanh tịnh, theo đúng các quy định bày đặt các vât dụng, nghi thức mà viết bùa và tụng chú trong một thời gian dài. Cơ chế tác động thì rất thần bí siêu hình, và rất khác nhau đối với từng loại bùa. Đại để đó là sự sai khiến quỷ thần phục vụ cho những mục đích riêng nào đó. Tất nhiên, không thể thiếu tác động của định tâm của người luyện bùa. Với sự định tâm + đọc chú + kiết ấn tạo ra được một công năng đặc dị do sự kết hợp THÂN (kiết ấn) + Khẩu (đọc chú) + Ý (định tâm) một cách đặc biệt. Tất cả công năng đó được (có lẽ thế) tích lũy ngày này, tháng khác… trên lá bùa. Đến một ngày kia bùa luyện có công năng sai khiến được quỷ thần (tùy theo loại bùa có các thế lực siêu nhiên riêng). Ai mang bùa chú, như mang dấu ấn của người luyện bùa, được sự che chở, phụ giúp của thế lực siêu nhiên nọ.
Việc luyện bùa là có thật, song chúng ta chỉ nên biết để cẩn thận, vì lý do sau: Quỷ Thần là những thế lực tâm linh có thật, tồn tại ở những cõi giới khác với con người. Ta không thấy biết được họ vì các giác quan và tâm mờ tối. Nhưng ngược lại họ thấy ta, và tác động được vào tâm tưởng của ta, dẫn dắt hoạt động tâm ý, vận khí của ta. Quỷ Thần cần tôn trọng mà không nên đùa giỡn. Do đó Lão Tế không phải muốn dấu mà muốn tránh mọi sự. Tôi nghĩ vì bạn đã hỏi, nhiều người muốn tò mò, nên phần nào khá hung hiểm, nên đành nói bừa để nếu bạn chưa rõ thì lưu tâm. Tức là: Người luyện bùa, tâm phải trong sáng, thân khẩu phải trong sạch, tích luỹ công đức to lớn mới mong sai khiến Quỷ Thần. Việc luyện bùa còn phải rất đúng cách và còn xem động cơ có trong sáng, không gây ra nghiệp xấu nữa chứ. Ai không hiểu điều đó, chắc bị Quỷ Thần vật chết. Còn ai mê tín và không hiểu thì lại dễ bị mấy kẻ lừa phỉnh cho vào tròng mất tiền oan.
2. Ngải: Luyện ngải có lẽ về cơ chế cũng giống luyện bùa, nhưng điểm khác là ở chỗ, luyện bùa có thể sai khiến Quỷ Thần, còn luyện ngải là để sai khiến LINH VẬT. Nhưng có lẽ Quỷ Thần thì linh hơn các linh vật nhiều, có phải không lão Tế. Lão này biết không nói làm mình đoán mò mệt quá!
3. Ếm: Ngoài bắc hay dùng từ trấn yểm. Chắc các bạn còn chưa quên những câu chuyện thần bí về việc trấn yểm ở sông Tô Lịch làm cho bao người bị tai nạn khi xâm phạm đến khu vực có trấn ếm. Có lẽ hình thức Trấn ếm ở sông Tô Lịch không phải là để Ếm một người, mà để Trấn Yểm cả một khu vực, một cửa ngõ Thủ đô. Người trấn Yếm (được cho là Cao Biền) chôn sống người để biến họ thành thần binh điều khiển, canh giữa khu vực trấn yểm. Còn trường hợp như Lão Tế dẫn ra là trấn yểm một cá nhân nào đó thông qua những vật lấy trên cơ thể của người bị hại như lông, tóc móng tay,…hay những vật dụng tùy thân của người bị hại. Tất nhiên, các Pháp sư trấn yểm vẫn phải đọc phù chú ếm lên các vật từ người bị hại nói trên. Tác dụng của những lời chú yếm này rất mạnh nếu công lực tâm linh của Thầy Pháp lớn. Nhưng theo tôi đây là những việc rất thất đức. Các thầy Pháp đem năng lực tâm linh của mình phục vụ cho những mục đích vụ lợi, hại người đen tối chắc chắn không thoát khỏi Quả báo ghê gớm. Người bị hại không thể chữa bằng thuốc đâu, mà phải giải bằng chính những bùa bình an như lão Tế đã nói.
4. Thư: cái cơ chế này tôi không rành lắm, đoán rằng nó cũng dùng vật, nhưng không phải linh vật, tác dụng chủ yếu là ở việc phù chú của Thầy pháp lên vật để tạo ra ảo giác ở người bị hại, vật dùng để tiến hành chỉ là một môi trường “truyền dẫn – chuyển tiếp”. Cái này có giống như thôi miên từ xa không lão Tế ơi?
5. Trù nguyền: Chúng ta rất hay dùng từ trù úm, ví dụ như xếp tôi trù úm tôi …, có lẽ nguồn gốc sự tình là từ thủ pháp này. Đây là thủ pháp không cần sai khiến THẦN-VẬT, không cần thông quá vật chuyển tiếp trung gian, không cần đọc Thần chú, phù chú. Đây đơn thuần là việc lập nguyện sâu xa và sự định tâm đến mức cao độ. Định tâm có mục tiêu là sự thanh lọc, chuyển hóa TÂM, tuy nhiên công năng đi kèm lại vô cùng mạnh mẽ. Các bạn thường kinh ngạc khi chứng kiến những khả năng siêu việt của con người được các nhà YOGA Ấn Độ biểu diễn, thực ra đều có cơ sở từ sự định tâm có trình độ rất cao. Trong một câu trả lời ở Y!H&Đ trước đây đã nói về trường hợp một người thợ rèn bị kẻ ác áp chế, mỗi lần đập búa rèn lại buông tiếng nguyền rủa và tưởng tượng như đập búa xuống đầu kẻ ác nọ. Kết quả, đến một ngày kia công năng của sự định tâm cao độ đã làm cho kẻ ác như bị từng nhát búa của người thợ rèn giáng vào đâu, mặc dù họ ở xa nhau. Tác dụng của lời nguyền của sự trù úm chủ yếu thông qua tâm tưởng với lời nguyện ước + sự định tâm cao. Từ điều này, ta thấy rằng, ai có quyền thế, không nên cưỡng bức áp bức người khác. Sự áp bức cao độ ở ta sẽ tạo ra một sự căn hận được chú tâm đến cao độ ở đối tượng và đến một ngày kia, nhân quả hiện đời xảy ra ngay lập tức với ta! Mặt khác, theo nhân quả, sự trù úm dù thành công, nhưng có hậu quả rất lớn cho bản thân người trù úm. Bạn nên biết, việc luyện tâm, định tâm chỉ nên nhằm vào việc hướng thiện và thanh lọc thanh tâm. Còn việc sử dụng nó cho mục tiêu vụ lợi hoặc hãm hai người khác là đi ngược lại với mục tiêu cao đẹp của nó. Các nghiệp quả do thân, khẩu nhưng vô tâm không lớn như các nghiệp quả do định tâm đen tối. cái này thì hết chữa, Địa ngục là cảnh giới thảm thương kết quả cho hành vi này.
-BUA : La mot tin hieu giong nhu con dau vay. NO cung co thien va ac , co cai de giup nguoi , cung co cai hai nguoi, tuy theo muc dich cua nguoi su dung no. NO thuoc ve tam linh , nguoi phai co nang luc ve tam linh moi tao ra no duoc.
NGAI : la mot loai cay bi tac dong cua nang luc vu tru trong tu nhien , cac tia sang vu tru chang han. No co nang luc nhu nang luc cua tam linh vay . no co loi hay hai la do nguoi su dung no vao muc dich gi. Ngai thuong moc trong cac vung rung nui nguyen thuy hoang da , noi sinh song cua nguoi dan toc nguyen thuy hoang da,
EM : La lam cho me mo di, khong biet den hien tai, mac dau mat van thay, tai van nghe. No co the lam cho tri thuc bi roi loan, khong kiem soat duoc he than kinh, noi nang, di, dung,giong nhu nguoi nghien ma tuy say ma tuy vay.
THU : La mot cach hai nguoi bang bua, ngai cua cac dan toc mien nui hoang da. Co the lam cho nguoi bi thu mat het ly tri hoc chet.
-Những thứ đó thực ra chẳng liên quan gì đến vấn đề siêu nhiên cả, ngãi là những thứ rể cây có chứa độc chất, còn thuốc thư là thuốc độc, ai trúng phải những độc chất này thì có thể chết nhanh hay chậm tùy thuộc vào tính mạnh hay yếu của chúng. chẳng có phù phép gì cả chỉ là kẻ trước muốn nhát người đến sau thôi, bạn thử tìm đọc tác phẩm ”Tướng núi Châu Thường” xem, quyển sách ấy có nói nhiều đến những điều được cho là bí ẩn trên.
-Về sơ lược Miền Nam có các phái :Nam tông ,Thất sơn, Chà kha , Pháp luân, Lỗ ban.v.v.Miền Bắc tuy có vài phái như ùa ngải dân tộc thiểu số, Ma xó, Phù thủy… gần đây có xuất hiện trường phái theo dòng Mật tông,tu và học theo Vạn pháp qui tông .v.v.
Riêng về phái Phù thủy , các pháp sư miền bắc thường có âm binh ,nên các thầy cũng có những phép rất ghê gớm ,chẳng thua gì Thiên Linh Cái cả.
Ví như hai nhà ghét nhau các thầy dùng lưỡi cày để yểm,xin lưu ý lưỡi cày phải đã cày ruộng rồi mới hiệu nghiệm.Thầy lấy hình nhân nhỏ có in và bán sẵn ngoài chợ ghi tên tuổi đối phương vào đó ,sau đó nam thì dùng 7 chiếc đinh nữ thì dùng 9 chiếc đinh, quấn chỉ ngũ sắc dùng bùa tam thánh ghi tên vào bùa rồi cho vào lưỡi cầy cho thêm thần sa , chu sa, hùng hoàng rồi đem ra cổng hoặc cửa hướng về nhà đối phương chôn xuống ,tất nhiên là đã qua làm lễ,người nào bị làm thì ốm đau thuốc thang không khỏi. Bệnh tình gì ,hạn gì,là do thân chủ hoặc thầy nguyền rủa,chỉ có thầy cùng môn phái hoặc phải cao tay mới hóa giải được.Ngoài ra thầy còn dùng răng bừa ,đinh ba..
-1, Nói về NGẢI : Đó chỉ là các lọai cây cỏ có một độc tính đặc biệt , có thể giết người như các thuốc độc, đại lọai như các lọai hóa chất có độc tính ở thương trường. Chỉ khác là Ngải còn mọc trên cây! Kẻ nào biết dùng ngải là kẻ biết dùng độc tính của nó .
Không hề có việc thần thánh nào nằm trong các cây ngải này ! Ai nói nuôi ngải phải thờ cúng là nói tầm bậy. Các ông thầy ngải. Nếu là lọai ngu dốt thì không đáng trách. Còn lọai biết mà cứ bầy đặt hù họa bà con mê tín dị đoan để trục lợt thì thật là tội lỗi.
Mình sẽ phân tích một số ngải và tính độc của nó để vạch trần cái vụ lừa đảo của các thầy Ngải cho các chư huynh đệ hiểu. Bởi trong thế kỷ 21 này mà còn mê tín dị đoan thì thật là hoang tưởng !
2, Nói về Bùa : Trước khi nói về Bùa, chúng ta phải hiểu về nhân điện. Nhân điện là gỉ? Hãy nhìn các tranh ảnh của các vị Phật, Thần, Thánh, bất cứ tôn giáo nào cũng thấy hình ảnh các ngài có ánh hào quang tỏa sáng chung quanh. Đó là nhân điện của các ngài mạnh mẽ tới độ chúng ta mắt phàm có thể nhìn thấy.
Lấy một ví dụ :
Đức Phật A Di Đà mà hầu hết các Phật tử thường tụng niệm tên ngài, phân tích tên này ta thấy : Phật nghĩa là người đã GIÁC NGỘ. Còn A DI ĐÀ nghĩa là ánh hào quang tỏa áng muông phương tới hàng hà xa số kiếp để cứu độ chúng sinh ( Nếu ai có sự giải thích khác xin góp ý vì quả thực mình muốn học hỏi ).
Lấy hình ảnh của Đức Phật A Di Đà làm thí dụ để chúng ta có một khái niệm nhân điện là gì. Thế thì chúng ta có nhân điện không?
Tất nhiên ai cũng có nhân điện cả. Nhưng nhân điện của chúng ta yếu ớt và nhỏ bé tới độ mắt phàm không ai nhìn thấy. Nếu chúng ta tu luyện thì nhân điện sẽ mạnh lên.
Người có nhân điện càng mạnh thì càng bảo vệ được bản thân mình một cách hữu hiệu. Còn tu luyện tới mức thành Phật, Tiên, Thánh thì nhân điện của mình có thể cứu nhân độ thế như các chư Phật, Tiên, Thánh !
Vậy bùa là gì?
Đó chính là một hình tượng có thể phát ra điện. Dòng điện này mạnh yếu tùy theo lọai bùa và quan trọng nhất là còn tùy theo nhân điện của người sử dụng nó nữa. Các thầy bùa gọi là “cao tay ấn” và cao thấp cỡ nào chính là tùy vào nhân điện của vị thầy đó.
Nhiều người đã không hiểu bùa là gì nên suy luận lung tung. Thậm chí còn hù họa nhau. Tệ hại hơn nữa là reo lòng mê tín dị đoan vào quần chúng để trục lợi !
Khốn khổ thay cho chúng ta khi chưa được học hỏi tới nơi tới chốn, nên nhiều khi bị những kẻ vì lợi riêng. Vì sự ngu dốt và lòng tự ái, kiêu ngạo bẩn thỉu của họ mà hù họa thiên hạ một cách đáng trách.
-Nghe ông ngoại tui kể có người luyện và điều khiển được bùa như vũ khí vậy . Phái macala hay gì gì đó hok nhớ rõ nữa. Hồi họp quá, nữia đi đại ka..
-Nếu ai đã từng đến Tây An Cổ Tự chúng ta sẽ gặp Đàn Pháp trong đó có tất cả các vị Tổ của vùng ĐNA này.
Một số ngôi chùa vùg miền Tây Nam Bộ hình như cũng có cách bố trí Đàn Pháp như nhau – đó là 1 cách bố trí Mandala của Mật Tông, cái hay của các vị Tổ Việt Nam (đặc biệt là vùng Thất Sơn)là các ngài biết vận dụng huyền cơ để tạo thành bản sắc riêng của người Việt, cho nên nếu nhìn vào cách sử dụng các phù, chú…ta bắt gặp trong đó thôi thì các môn .
Vì Mandala vốn không phải là của Phật Giáo Việt Nam nhưng các Ngài sau khi học hỏi đã thay đổi 1 chút và bố trí bằng các tượng của các vị Tổ sư thuộc vùng ĐNA,tui đã có dịp chiêm bái 1 Mandala có tới cả ngàn tượng Phật, các hóa thân của các Ngài…
Phải nói rằng…tuyệt diệu và phi thường vì vượt ngoài sự hiểu biết của con người, nó chứa đựng những huyền cơ của tạo hoá, của các cõi giới chư Phật…Sau khi hành giả đi nhiễu xung quanh các Mandala này và tu tập thì sẽ nhận được rất nhiều điềm lạ.”
-Tây Ninh là đất phát tích của Cao Đài giáo, về cao thủ giới huyền bí, quả là chốn địa linh, rồng nằm cọp ẩn!
Đây cũng là nơi giao thoa của rất nhiều văn hóa siêu linh, của người Champa, người Khome, cả một số người Hoa, lại có những cao thủ xứ Thượng ( Tây nguyên ) với ngôn ngữ, lè phép tương đồng đến kỳ lạ với dòng văn hóa Chà và ( Java ) ….
Đây cũng là nơi mà các dòng chữ gốc phạn – mang quyền lực Phật pháp được Hán hoá, Việt hóa rộng rãi … mà quen thuộc nhất với người phàm trần ngoại đạo chúng ta là câu chú Úm ma ni bát minh hồng ( Om mani padme hum )