Trù yểm hay trù ếm là loại ma thuật của những thầy Pháp, phù thủy, đạo sĩ dùng để làm kẻ khác phải đau ốm, gặp điều nguy hiếm, không may. Thư ếm hay bó ngái cũng vậy.
Nhiều người cứ tưởng rằng chỉ ở Trung Hoa, Việt Nam và nhất là ở vùng Sơn Cước, Mạn ngược là thường xảy ra hiện tượng thư ếm, bỏ bùa, ngải. Nhưng thật sự nhiều nơi trên thế giới đã có từ lâu sự kiện này. Ở Philippine ( Phi Luật Tân ) Indonesia ( Nam Dương quần đảo , Mã lai á, Miến Điện, Lào, Cam bốt… và xa hơn nữa là Phi Châu, Úc Đại Lợi) .Theo nhà nghiên cứa Derek và Juha Parker chuyên về Huyền Thuật và Ma Thuật thì vùng Nam Phi nhất là ở Dahomey, Be nin và Tây Nam Cameroon thường có nhiều phù thủy chuyên trù yểm thư yếm người. ở Su dan, Zavre, Brazil, ở Haiti và ngay cả Âu Châu xưa cổ nhất là vùng Bắc âu cũng có những trò ma thuật ghê gớm này.
Tác giả Toan ánh đã viết về vấn đề trù ếm như sau: ” Có nhiều người thù ghét nhau, không thể đường hoàng làm gì nhau được nên thường nhờ các thầy Ngải, thầy Pháp, thầy Tự trù ếm kẻ thù. Có khi bỏ bùa làm hại, có khi dùng ngải để trù ẻo khiến cho người bị bỏ bùa, bị trù ẻo sinh đau ốm, bệnh tật. Trong những trường hợp này, gia đình người bệnh phải tìm các thầy Ngải, thầy Pháp cao tay để hủy bỏ bùa và phá ngải mới khỏi được bệnh.
Cũng có khi cầu Thần Thánh chỉ nơi bỏ bùa, lấy bùa đi hoặc xin Thần Thánh ra tay trừ Ngải.
Có nhiều người bị thư, nghĩa là bị người thuê các đồng bào Mường hoặc Thượng để thư vật gì vào thân thể. Phải tìm cho được người thư ấy, để họ kẻo thư về thì mới khỏi bệnh được. Có người bị thư quả trứng, miếng mảnh sành, bó giẻ… vào trong bụng không sao lấy ra được. Theo những lời thuật lại thì dù người bị thư có được bác sĩ giải phẫu lấy vật thư ra, rồi sau đó vật thư cũng vẩn trở lại vào trong người nếu người thư chưa kéo thư về ” ( Toan Ánh – Phong tục Việt Nam, Trang 473 và 474 – Sài Gòn 1969)
Vẽ bùa yểm chú còn thấy trong những đám ma.
Lúc đám tang chuyển từ nhà ra đường người xưa tin rằng ma quỷ sẽ lợi dụng lúc có người chết, cảnh trí đám tang nhuốm vẻ thê lương, u ám sẽ dễ bề len lõi, nhập vào quấy phá. Vì thế để có thể dọa nạt, cảnh cáo ma quỷ, người ta dùng tre đan hình nhân và phất giấy màu vẻ mặt dữ tợn để tạo những thần tướng oai phong tay cầm gươm giáo ngực có dán bùa xua đuổi ma quỷ. Thường người ta đan hai hình nhân bằng tre dán giấy cho hai người nắm đi đầu đám tang. Hai biểu tượng ấy được gọi là phương tướng. Để linh hoạt hơn, nhiều nơi thay hai hình nhân bằng hai người thật được vẻ mặt dữ tợn hay đeo mặt nạ có răng nanh, mắt trợn, áo quần ngũ sắc có đeo bùa trừ, yểm xua đuổi ma quái yêu tinh. Hai người này sẽ dẫn đầu đám ma vừa đi vừa múa gươm giáo.
Có khi hai Phương Tường bằng người thật này lại được tăng cường thành 4 hay 5 người. Lúc bấy giờ đám ma sẽ được xem như bảo vệ và dẫn đạo bởi các vị Thần, Tướng. Có tất cả 4 vị tướng và một vị thần. Những người này phải lo ăn mặc áo quần đầy màu sắc có dán bùa phép, phải biết múa gươm giáo và hát hay đọc chú để trừ yêu đuổi quỷ cùng loài ma quái muốn xâm nhập đám ma lúc đi đường.
Ngày xưa người ta thường thuê những người trong nhóm phường hát, các đoàn hát bội để làm các Thần Tướng vì cách thức nhập vai của họ rất đúng điệu.
Những người này khi đóng vai Thiên Tướng, Thần Hổ đều múa đao, kiếm, nhảy múa, đọc chú trong suốt thời gian đám ma đi trên đường tới mộ huyệt. Lúc đám ma tới mộ huyệt, bốn Thiên Tướng và Thần Hổ bắt đầu đi quanh huyệt vừa múa gươm giáo vừa hát và đọc chú, vẽ bùa để trấn yểm ma quỷ, đuổi chúng ra khỏi huyệt đang để trống ( vì có nhiều ma quỷ ẩn núp sẳn dưới huyệt chờ khi hạ huyệt con cháu kêu khóc về người chết, chúng sẽ vào quan tài để nhập vào xác người chết).
Trong cuốn Phong Tục Việt Nam, ở phần Tang Ma và ở đoạn mô tả về Nghi Trượng đi đường của đám ma (trang 52 1 – 1 969) , soạn giả Toan ánh đã trình bày rất chi tiết về vấn đề này và cũng đã viết về các Thiên Tướng và Thần Hổ, những người đóng vai trị huyệt, xua đuổi ma quỷ như sau:
Sau khi vẽ bùa yểm chú khắp nơi huyệt và chung quanh, năm người đóng vai trị huyệt này đều vội vã bỏ ra về, mỗi người đi một đường mà không ai trở lại con đường lúc đã đi. Tục tin rằng những tà ma, trùng quỷ bị xua đuổi ớ dọc đường cũng như ở ngôi huyệt, căm giận mấy vai phương tuồng, chúng sẽ họp nhau lại đón đường để trả thù .
Những vai phường tuồng này, khi về đến nhà cũng phải vội vàng cởi bỏ quần áo, rửa mặt cho hết nét vẻ để trở lại người thường ngay, tránh sự báo thù của ma quỷ.
Sự kiện vừa trình bày trên thật giả thế nào, quả thật chưa ai biết được và cho đến nay cũng chưa ai giải thích được rõ ràng. Tuy nhiên đã có nhiều lần xảy ra tai họa lạ lùng cho những người đóng vai Thiên Từng, Thần Hổ hoặc Phương Tướng. Anh Lê Văn Thành trú tại An Cựu-Huế năm 1949, đã từng sống bằng nghề giả làm Phương Tướng dẫn đầu đám ma doạ nạt ma quỷ. Một hôm đang trên đường về nhà, trời sẩm tối. Khi đi ngang qua một cây đa to lớn sum sê bên đường anh bỗng nghe một tiếng động, rồi từ trên cây đa rơi xuống một cái tổ kiến to bằng đầu người. Anh giật mình dừng lại nhìn kỷ thì cái tổ kiến ấy chuyển động và anh thấy như một cái đầu người có hai mắt và cái miệng sân hoáy đen ngòm đang nhìn anh.
Tự nhiên trong người anh nổi gai ốc, anh vội vã bước nhanh về nhà và từ đó anh cảm thấy ớn lạnh trong người không ăn uống gì được. Thế rồi , liên tiếp mấy đêm liền, vào khoảng giữa khuya anh đều mơ thấy những hình ảnh kỳ dị và những tiếng nói cứ lập đi lập lại bên tai anh:
– Mày phải bỏ ngay cái nghề mày đang làm đi, nếu mày dọa nạt, vẽ bùa, đọc chú xua đuổi chúng ta thì mày cũng sẽ bị chúng ta làm cho dở sống dở chết…
Anh Thành đã thuật lại sự việt cho Thượng Tọa T.N.H. nghe và lúc đó Thượng Tọa đã góp ý như sau:
– Mọi sự tại tâm ? nếu tư tưởng con đã có những hình ảnh, ý nghĩ phát sinh từ những sự việc con làm thì cách hay nhất là con hãy từ bỏ cái nhân đi là xong. Cái nhân ấy là việc làm của con trước đó.
Anh Thành nghe Thượng Tọa T.N.H. chỉ dạy, đã không còn nhận làm Phương Tướng nữa và sau đó anh đã hết bệnh. Về sau . khi kể lại chuyện xưa ngày cũ và nhắc lại câu chuyện anh làm Phương Tướng ngày nào, anh Thành vẩn còn sợ
và cho biết thêm như sau: Lúc đó tôi có một ông chú ở trong Thành Nội gần cửa Thượng Tứ cũng thường đi làm Phương Tượng nhưng ông không bị ma quỷ hù họa như tôi. Khi thấy tôi sa sút xanh xao và nghe tôi kể lại câu chuyện gặp ma quỷ ám, ông thở dài nói : chú đã dặn cháu là đừng mặc đồ Phương Tướng về nhà sau khi xong việc theo đám táng nhất là về nhà nên đi đường tắt, đổi quần áo khác và đội nón che
mặt, nhưng cháu cứ ỷ mình là thanh niên chẳng ngán ai, kể cả ma quỷ’, nên mới bị nó nhát đó .
Vì sao Bùa Chú trở thành bí truyền?
Theo các sách về ” Mật pháp ” của Tàu thì Bùa Chú chỉ truyền cho những người có Đức, và người được truyền phải làm lễ tuyên thệ với Tôn Sư, với Thần Thánh. Không phải bất cứ ai cũng học được.
Vì sao? Vì người hiểu biết và sử dụng được Bùa Chú sẽ gây tai hại cho kẻ khác, nếu y có lòng ích kỷ tham lam, vì người biết bùa chú huyền thuật sẽ là ” ngoại càn khôn ” đối với xã hội nếu y có tà tâm.
Ngoài việc lập đàn làm lễ tuyên thệ ra , người đệ tử được Tôn Sư truyền cho Bùa Chú còn phải thệ nguyện giữ đúng mười điều giới răng rất nghiêm nhặt. Chính vì mười điều giới răn này mà bực tầm thường thiếu Đạo Đức không sao theo nổi. Những điều kiện khe khắt ràng buộc người học Mật Pháp giống như một cuộc thi Đạo Đức rất gay go, thành thử không có mấy người theo học nó cho đến nơi đến chốn , mà chỉ học được một vài món tầm thường mà thôi .
Nhân xấu sẽ sinh Quả xấu. bởi thế, các vị đạo sư, pháp sư đứng đắn, hiểu rõ đạo lý nhân quả, không bao giờ dám dùng bừa chú để hại người. Trái tại họ dùng sự hiểu biết về siêu hình học của họ để giúp đo người khác.
Rốt cuộc, Bùa Chú hay lời cầu nguyện, tất cả đều do tâm con người mà có. Cho nên nói rằng Vạn pháp Duy Tâm tạo là phải.
Chính cái Tâm của bạn mới là Đệ nhất linh thiêng. Bạn chứa sẵn Tâm lành, bạn lại nghĩ việc lành. Nachẳng may bạn gặp việc rắc rối, bạn có ý muốn được giải nguy thoát khổ vì việc rắc rối đó. Bạn thành tâm cầu nguyện hoặc cầu sức Mẹ Maria , hoặc cầu Đức Quán Thế Âm, hoặc có thể vẽ Bùa .. Bạn sẽ thấy rằng ý bạn sẽ được kết quả… Bởi lẽ tâm lành của bạn là Nhân, còn Bùa Chú cũng như lời cầu nguyện là duyên. Nhân Duyên đó gặp lòng từ bi của các bậc siêu hình tự nhiên cảm ứng phát sinh kết quả.
Các nhà Đạo học đã nói:
– Nhất t Phù, Nhì Chú, Tâm Thần lực.
( Một là Bùa, hai là Chú, ba là Thần lực – Bởi Bùa,
Chú là do sức Tin mà có và Đức tin ấy lại đặt vào Thần lực của các bậc Siêu Hình. Ba cái đó hợp tất nhiên sẽ có sự kỳ diệu!
Khi giải thích về ‘lsức mạnh do Tâm tạo ra, nhà nghiên cứa Bùa Chú ấn còn cho biết:
– Tâm có thể biến thành sức mạnh.
– Tâm lý tập trung vào những nét của cá Bùa.
– Ngón tay tuỳ theo Tâm mà vẽ nên những nét bùa trên giấy, trên chén nước.Sẽ phát ra một thứ Điện từ lực.
Miệng niệm chú khi trí óc tập trung tư tưởng, ý chí. Khi niệm chú, âm thanh cũng tạo ra Điện từ lực .Sức mạnh của Tâm, của tư tưởng, của Điện từ kết hợp lại thành một khối sức mạnh đặc biệt do Thân ( bàn tay) Khẩu ( âm thanh ) và ý ( Tâm, tư tưởng ) tập trung và phát ra. Từ nét vẽ của Bùa tới lời lẽ, âm thanh của câu chú đều nhằm tạo sức mạnh phối hợp của Thân, Khẩu, Ý . Thần lực tức là Điện. Nói cách khác nó là Tâm Lực.
Bởi vì tất cả đều do Tâm mà ra. Tâm chuyển được vật là bởi Tâm phát ra Điện từ lực. Tâm, vật đồng một thể hay Nhất thiết duy tâm tạo chính là ý ấy.
Đã biết rằng Tâm có thể chuyển được Vật thì cũng biết rằng Vật có thể chuyển được Tâm. Những bùa yêu, bùa thương, bùa tạo giấc mộng đẹp… Đều phát sinh bởi lý đó.
Những chữ Bùa, những câu Chú, những phép luyện, những bí thuật v…v… đều là sự diệu dụng của Chân Tâm. Mà Chân Tâm thì bao trùm khắp Thần, Thánh, Tiên, Phật, cho đến ma quỷ, chúng sánh, địa ngục, Thiên Đường, tất cả đều ở trong Chân tâm.Hể lòng ngay, chánh thì mọi sự đều ngay chánh, hễ lòng tà vạy thì mọi sự đều tà vạy . Hễ tâm bị tán loạn thì yếu ớt, không tác động được gì . Nhà Đạo học nhờ thấu rõ muôn vật đều là giả ảnh, từ chỗ không mà có cho nên Tâm không bị Vật hạn chế. Hễ tâm không bị vật hạn chế, ràng buộc thì Tâm hoàn toàn làm chủ Vật, diệu dụng vô cùng…”
Thần Chú và Cầu Nguyện
” Thần chú khác với cầu nguyện. Cầu nguyện là hạ mình yêu cầu kẻ khác kể cả thần linh.
Còn đọc thần chú là ra lệnh cho những lực lượng vô hình. Chính vì cái Tâm mình ngay chánh tự tin ở đạo đức ức của mình có thể làm cho quỷ thần kinh khiếp cho nên nhà Đạo Đức chế ra những câu chú có tính cách truyền lệnh. Ví dụ câu chú sau đây giúp sáng tai, nghe cảm được mọi sự họa phước sắp xảy đến. Câu chú này gọi là ” Minh nhỉ chú “:
– Thiên Chi Thần quang, địa chi thần quang, Nhật nguyệt thần quang, nhỉ biên quang, chú chi nhỉ văn, chú văn nhỉ khai quang, thần thông nhập nhỉ, tốc chi nhỉ bàng, cấp cấp như Cửu thiên Huyền nữ luật lịnh… nhiếp.
Đọc Thần chú là Tâm phát ra tiếng động tạo thành những điện ba ( sóng điện ). Hễ sóng điện mạnh thì cảm ứng những đường thẳng và đường cong phối hợp với nhau . Đường thẳng hợp thành góc cạnh biến ra những hình tam giác, tứ giác, lục lăng… hình tròn, hình thuần, hình cong, hình nón… và vũ trụ chỉ là những đường thẳng, đường cong phối hợp, biến hóa thành ra muôn hình vạn trạng (kỷ hà học). Điều này thấy rõ khi quan sát những hình ngôi sao, lục giác, những hình kỷ hà biểu tượng trong các tôn giáo hay từ những phương thuật vẽ bùa của người Ấn, người da đỏ, người Phi Châu, người Trung Hoa, người Âu Châu v…v… ”
Về sức mạnh của hình vẽ ( Bùa ) thì có hai loại bùa (phù). Một là những dấu hiệu gồm chứa cả một nguyên lý hợp với sự vận hành của Tạo hóa. Người Tây phương gọi là Pantacle. Như Thập tự giá của Thiên Chúa Giáo, cho chử Vạn của Phật Giáo, hình ngũ giác đen trắng của vua Salomon… Mỗi hình vẽ tuy có khác nhau nhưng cùng theo đúng một nguyên lý cả.
Thập tự giá tượng trưng cái Tâm hướng về Thượng Đế tức là chân lý, là sức mạnh tạo nên sự sống.
Chữ Vạn là chữ Thập bẻ gãy hai đầu nếu nhìn chung sẽ trông giống như Bánh xe Pháp luân lăn tròn từ bên phải mà đi , ấy là Thiện thắng ác, Trí Huệ tháng Si Mê, làm thành muôn Đức vạn Hạnh và tất cả muôn Đức vạn Hạnh ấy từ một Tâm mà tỏa ra.
Hình ngũ giác của vua Salomon là hai hình tam giác, một trắng một đen chéo nhau. Trắng là Đức trí, đen là Si mê tà ác, trắng đi lên, đen đi xuống. Đi lên là ánh sáng là hướng về Thượng Đế toàn thiện toàn năng. Đi xuống là địa ngục, tối tăm. Khi hình ngủ giác ấy vận chuyển, lăn đi thì bất cứ phía nào cũng đều có một góc chỉ lên trên và hai góc còn lại làm chân đứng. Đó là Thượng Đế là Bản thể vũ trụ vạn vật.
Người Do Thái và những nhà Siêu hình học Tây Phương đã lấy hình ngũ giác của vua Salomon ( Penta- gramme de Salomon ) để làm bùa chiêu phúc, tin rằng nó sẽ tạo ra ảnh hương phúc đức tốt lành.”
Về bí quyết họa Bùa, nhà nghiên cứu này còn cho biết :
Bí quyết của Thần chú là phải tĩnh tâm. Họa phù là Tâm vẽ ra hình, nét, tạo thành điện cảm. Cho nên bí quyết của sự họa phù là phải vẽ luôn một mạch, dồn ý chí vào nét vẽ, có thế mới phát sánh điện cảm ứng. Lúc họa phù phải nín thở, tập trung tất cả tâm ý vào ngọn bút để vẽ chính là ý nghĩa ấy.Tay vừa họa phù, miệng vừa niệm chú hèn theo nét vẽ, ấy là tập trung cả sức điện của tâm do tay và miệng phát ra.
Ngoài ra phải tuân theo mười điều giới răn khi họa phù: Bùa chú có đủ loại. Bạn có thể sưu tầm được nhưng bạn sẽ không thể nào áp dụng được, nếu bạn không biết phương pháp.
Nhất là mười điều giới răn:
– Khi Họa Phù, phải loại trừ tất cả vọng tưởng vọng
niệm trong tâm.
– Phải dẹp bỏ tất cả tà ý ( ý nghĩ quấy)
– Phải thành tâm thành ý
– Phải tập trung tâm ý vào mỗi việc sở cầu ( điều mong muốn này phải chính đáng)
Miệng phải sạch sẽ, tức là phải súc rửa cho tinh khiết .
– Tay phải sạch sẽ, nếu xông hương khử được càng
Tốt .
– Bút mực phải mới tinh.
Phương hướng ngồi phải đúng ( có khi phải hướng
Nam có khi phải hướng Đông .
– Không được nóng nảy hấp tấp.
– Không được vẽ đi vẽ lại một nét.
– Miệng niệm Chú phải đồng nhịp với tay họa phù.
(Một hơi từ lúc phóng bút cho đến khi dứt chữ thì xong).
– Không được khạc nhổ, ho hen.
– Không được sửa đi sửa lại.
Giữ đúng những điều trên, chẳng những mười điều
giới mà thôi, tất cả đến mười ba giới.
Suy xét kỹ, chúng ta thấy gì? Mười ba điều giới đó.
đều có ý nghĩa lại tập trung tâm ý tư tưở và ” thanh
tịnh thân khẩu “.
Khi cả ba món THÂN, KHẨU và Ý được hoàn toàn trong sạch thì ĐỊNH vực phát hiện. Cũng như mặt nước yên lặng trong trẻo thì nhìn thấy đáy. Khi Định lực phát hiện thì tự nhiên có hiệu dụng, ta tạm gọi là Thần Lực vậy .
Sưu tầm